Nghệ thuật viết Thư Pháp:
nét đẹp của chữ và tâm hồn người cầm bút
Chắc hẳn nhiều người đã nghe qua về Thư Pháp. Nhưng để hiểu rõ
được nét đẹp môn nghệ thuật viết chữ này, ắt sẽ còn nhiều người lạ lẫm. Vậy sao
không cùng nhau tìm hiểu về Thư Pháp ngay bây giờ nào!
Bốn câu thơ nổi tiếng về “Ông đồ” của
Vũ Đình Liên đã phác họa hình ảnh của một môn nghệ thuật từng rất phổ biến:
nghệ thuật Thư Pháp. Ngày nay tuy không còn được chú ý như trước, nhưng một số
bạn trẻ vẫn có hứng thú với môn nghệ thuật này, tiếp nối phát huy để không bị
mai một.
Thư
Pháp là gì?
Thư
Pháp là nghệ thuật viết chữ bằng bút lông, thể hiện qua nét chữ những tâm tình
và gửi gắm của người viết. Viết Thư Pháp không chỉ đòi hỏi chữ đẹp, mà bố cục
còn phải hài hòa, đôi khi phải hợp phong thủy.
Thư
Pháp vốn xuất thân từ Trung Hoa. Do nét chữ tượng hình đặc trưng, Thư Pháp
Trung Quốc phát triển rực rỡ với nhiều dạng chữ như chữ Triện, Lệ, Chân, Hành,
Thảo. Nghệ thuật Thư Pháp ảnh hưởng và lan rộng qua các nước láng giềng như Hàn
Quốc (Thư Nghệ), Nhật Bản (Thư Đạo).
Ở
Việt Nam, Thư Pháp chữ Hán – Nôm đã từng rất phổ biến, hiện nay thi thoảng vẫn
được sử dụng. Về sau, cùng với sự phát triển và phổ biến của chữ Quốc Ngữ, Thư
Pháp Việt ra đời vừa mang tính đổi mới với việc sử dụng chữ La tinh, vừa đậm
nét truyền thống với phong cách nghệ thuật cổ xưa.
“Văn
phòng tứ bảo” gồm những gì?
Để
viết Thư Pháp, cần đến Văn phòng tứ bảo, tức là bốn món bảo vật trong thư
phòng. Những món ấy gồm: bút lông, mực, nghiên mực và giấy viết.
Bút lông
Bút
lông là công cụ quan trọng nhất để thi triển Thư Pháp. Được ví như bảo kiếm của
tướng sĩ khi ra trận, bạn nên tìm hiểu về bút lông trước khi chọn mua bút viết
Thư Pháp để chắc chắn dùng thuận tay nhất và thỏa sức phóng tác.
Bút
lông được phân loại theo nguyên liệu đầu bút (lông chuột, lông thỏ, lông chồn,
…), kích thước (tiểu khải, trung khải, đại khải, …), mục đích sử dụng (viết chữ
hay vẽ tranh), độ đàn hồi (nhuyễn hào, ngạch hào, kiêm hào, …), hình thái (viên
hào, tiêm hào, …).
Một
cây bút lông tốt thì sẽ hội đủ các yếu tố sau đây: Tiêm, Tề, Viên, Kiện.
- "Tiêm"
nghĩa là nhọn, khi nhúng ngọn bút vào mực hay nước thì lông bút túm lại đến
phần đầu bút phải thật nhọn.
- "Tề"
là ngay ngắn, tất cả các sợi lông phải được xếp đều đặn ngay ngắn từ gốc đến
ngọn, không xiên qua xéo lại. Lúc bút lông khô, xoè ngọn bút lông ra trên
mặt giấy, nếu thấy lông bút lông xoè đều ra như hình rẽ quạt thì là bút tốt.
- "Viên"
là tròn đều, quan sát thấy xung quanh ngọn bút no đầy, bốn mặt tròn đều
không bị lõm vào hay lồi ra.
- "Kiện"
là cứng cáp, ngọn bút có độ đàn hồi cao, nhấn bút xuống mặt giấy khi nhấc
lên, ngọn bút trở lại trạng thái ban đầu.
Tuy
nhiên, khi mua bút chúng ta chỉ quan sát được ngọn bút có nhọn và tròn đều hay
không thôi, vì bút được nhúng một loại hồ đặc biệt của nhà sản xuất. Sau khi
mua về, các bạn nhớ ngâm bút trong nước để rửa sạch hồ và thử bút nhé.
Tìm
mua được bút ưng ý, bạn cũng cần lưu ý bảo quản bút thật tốt: rửa bút trước và
sau khi dùng, cất nơi khô ráo để đảm bảo lông bút mềm, đàn hồi tốt, sạch
mực. Bạn cũng đừng quên kiểm tra, bỏ bớt các lông bút bị đứt để tránh làm
xấu nét khi viết.
Mực tàu
Mực
và bút là hai vật phẩm quan trọng nhất khi viết chữ. Mực tốt thì viết ra chữ
đẹp.
Việc
làm mực rất công phu, chọn một thỏi mực quý và tốt cũng công phu không kém. Cho
nên, người ta thường nói: "Vàng dễ kiếm mà mực khó tìm".
Hiện nay có hai loại mực tàu là mực nước và mực thỏi.
Mực
nước dạng lỏng, khi cần có thể đổ ra dùng ngay, cực kỳ tiện lợi.
Mực
thỏi thì tốn thêm chút công phu mài mực. Nếu xem Thư Pháp là một môn nghệ
thuật, thì việc mài mực cũng không hề kém cạnh.
Một
thỏi mực tốt sẽ có mùi hương dễ chịu, mịn, cầm nặng tay, khô ráo, mực đen ánh
lên sắc tía; có thể để lâu, càng lâu càng tốt. Mực xấu thì nặng mùi keo, ẩm, để
lâu không dùng được.
Để
mài mực, bạn cho một ít nước sạch vào nghiên mực, dựng thỏi mực đứng theo chiều
kim đồng hồ, mài nhẹ nhàng thư thái. Lượng nước và thời gian mài tùy vào lượng
mực và độ đậm nhạt bạn cần, thường chúng ta sẽ mài đến khi màu mực đen sậm và
có độ keo sệt.
Tịnh
tâm mài mực cũng là lúc tâm hồn bạn được tĩnh lặng, cơ tay được rèn luyện, thần
trí minh mẫn sảng khoái, có lẽ đây là bước chuẩn bị tốt cho một bức Thư Pháp
đẹp.
Nghiên mực
Nghiên
là dụng cụ để mài và chứa mực tàu. Nghiên có thể làm từ đất sét, đồng thiếc,
sắt hoặc sứ. Nghiên có thể có bề mặt trơn nhẵn, cũng có khi được chạm trổ tinh
xảo.
Thời
xưa nghiên mực còn được đặc biệt chế tác từ ngọc thạch, đá quý. Chất liệu
nghiên mực phản ánh vị thế và chức phận của chủ nhân. Các hình chạm khắc trên
nghiên còn đa dạng tùy thuộc vào sở thích và tín ngưỡng của chủ. Lịch sử ghi
nhận nhiều nghiên mực chạm trổ hình long lân quy phụng, các vị la hán, tiên
ông, hoặc cảnh hoa lá cầu kỳ.
Giấy viết
Nếu
bạn là người mới luyện chữ, giấy không cần quá cầu kỳ, không quá nhẵn hoặc quá
thấm là được, bạn có thể sử dụng các loại giấy thông dụng trên thị trường.
Tuy
nhiên để tạo ra các tác phẩm Thư Pháp đẹp mắt hơn, bạn cũng cần tìm hiểu vài
loại giấy chuyên dụng hơn. Ở Việt Nam hiện nay, có một số loại giấy thường dùng
trong Thư Pháp như sau:
- Dòng giấy ốp,
ganh, nhung với những ưu điểm: dễ bám mực tàu, nhanh khô mực, tạo nét xước
đẹp khi viết thư pháp Việt, chất liệu giấy phổ biến, giá thành rẻ, có sẵn
nhiều kích cỡ khác nhau, có nhiều mẫu in tranh, in viền, người viết thư
pháp có nhiều sự lựa chọn.
- Giấy xuyến
(hay còn gọi giấy Tuyên Chỉ) có tính chất mềm dai, màu trắng, được ví sáng
bóng như ngọc (giấy xuyến truyền thống có màu trắng), không bị mối mọt, mục
nát, ít bị biến sắc qua thời gian. Khi viết “mặc phân ngũ sắc”, tức có thể
có thể tạo ra năm dải màu đậm nhạt khác nhau.
- Giấy dó có đặc
tính xốp nhẹ, bền dai, ít nhoè mực khi viết vẽ, ít bị mối mọt, giòn gãy, ẩm
nát, có khả năng chống ẩm cao. Giấy dó rất bền với thời gian nên được ứng
dụng làm sắc phong, gia phả, sổ sách lưu trữ, làm tranh dân gian, đồ chơi
trung thu, v.v. Trong thư pháp, giấy dó rất phù hợp để viết tác phẩm cỡ chữ
nhỏ do giấy dó có độ thấm mực tốt, ít bị loang, nhoè mực.
- Giấy Mao
Biên Chỉ là loại giấy vàng nhạt, chất liệu giấy tinh tế, mỏng nhưng bề mặt
lại xốp mềm, khả năng thấm mực, hút nước tốt. Đặc biệt phù hợp để viết chữ,
chế tạo sách cổ.
Thế
nào là chữ Thư Pháp đẹp?
Đẹp
hay không và thế nào thì mới đẹp luôn là vấn đề gây tranh cãi ở nhiều lĩnh vực
nghệ thuật, Thư Pháp cũng không ngoại lệ. Có người cảm thấy chữ dễ đọc là chữ
đẹp, có người lại cho rằng ngoằn ngoèo trừu tượng một tí mới xứng là nghệ
thuật.
Nghệ
thuật là tùy vào cảm nhận của mỗi người, khó có thể phân định ai đúng ai sai.
Một tác phẩm Thư Pháp cân đối hài hòa, đường nét câu chữ nói lên cái tình cái
tâm của người viết, màu sắc gợi cho bạn những hỉ nộ ái ố khác biệt, tùy mức độ
bạn cảm thụ được mà cho rằng có đẹp hay không.
Không
giống như khi chúng ta dùng điện thoại hay máy tính, nét chữ mặc định giống
nhau cả. Chữ Thư Pháp mỗi người mỗi khác, cho dù bạn học theo ai, dần dần con
chữ cũng sẽ mang cá tính riêng của bạn, tùy thuộc cả tâm ý lúc viết chữ nữa. Nên
nếu như bạn có ý định theo đuổi, nghiên cứu môn nghệ thuật này, hãy tự tin lên
nhé.
Hãy
cùng xem qua một số tác phẩm Thư Pháp dưới đây để chiêm nghiệm thêm về môn nghệ
thuật này nhé.
Voh online
Nhận xét
Đăng nhận xét